1. Sinh con thứ ba có được bổ nhiệm, quy hoạch hay không?
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 7 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, bổ nhiệm được định nghĩa là quá trình quyết định giao cho cán bộ, công chức một chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc một ngạch theo quy định của pháp luật. Điều này nhấn mạnh sự quan trọng của quá trình bổ nhiệm trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng, đáp ứng đúng nhu cầu và nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Theo Điều 51 Luật Cán bộ, công chức, việc bổ nhiệm cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý được căn cứ vào nhu cầu và nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cũng như tiêu chuẩn và điều kiện của chức vụ đó. Điều này đảm bảo rằng quá trình bổ nhiệm phải được thực hiện một cách có chặt chẽ và đồng nhất, đồng thời đảm bảo sự phù hợp với yêu cầu công việc cụ thể.
Để hướng dẫn chi tiết về quy định này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 138/2020/NĐ-CP. Trong Nghị định này, Điều 42 quy định rõ về tiêu chuẩn và điều kiện bổ nhiệm công chức giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo. Các điều kiện này bao gồm:
– Tiêu chuẩn chung, tiêu chuẩn chức danh và tiêu chuẩn cụ thể của chức vụ bổ nhiệm: Đảm bảo rằng người được bổ nhiệm đáp ứng đầy đủ yêu cầu chung và cụ thể của chức vụ.
– Quy hoạch chức vụ: Cần đảm bảo rằng người được bổ nhiệm đã được quy hoạch chức vụ tại chỗ hoặc từ nơi khác, nhằm đảm bảo sự hài hòa trong nguồn nhân sự.
– Hồ sơ và lý lịch cá nhân: Đối với bổ nhiệm lần đầu hoặc chức vụ cao hơn, yêu cầu có hồ sơ đầy đủ, lý lịch cá nhân đã được xác minh và có bản kê khai tài sản, thu nhập.
– Điều kiện về độ tuổi: Tuổi bổ nhiệm phải đủ theo quy định, và cần tuân thủ quy định cụ thể nếu có.
– Sức khỏe đủ để hoàn thành nhiệm vụ: Người được bổ nhiệm phải đảm bảo đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ và chịu trách nhiệm công việc.
– Không thuộc các trường hợp cấm đảm nhiệm chức vụ: Bảo đảm rằng người được bổ nhiệm không thuộc các trường hợp cấm đảm nhiệm chức vụ theo quy định của Đảng và pháp luật.
– Không trong thời hạn xử lý kỷ luật: Người được bổ nhiệm không đang trong thời hạn xử lý kỷ luật, không liên quan đến các quy định liên quan đến kỷ luật.
Qua các quy định này, quá trình bổ nhiệm cán bộ, công chức trở nên minh bạch, công bằng và đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống hành chính công.
Như vậy thì việc bổ nhiệm cán bộ công chức là thực hiện theo quy định của pháp luật và cần đáp ứng được các điều kiện theo quy định. Có thể thấy nếu như công chức giữ vị trí lãnh đạo sẽ không được bổ nhiệm nếu như bị xử lý luật và không trong thời gian thực hiện các quy định liên quan đến kỷ luật.
2. Khi nào cán bộ, công chức sinh con không vi phạm chế độ sinh một hoặc hai con?
Theo quy định của Điều 2 Nghị định 20/2010/NĐ-CP, được sửa đổi bởi Điều 1 Nghị định 18/2011/NĐ-CP, những trường hợp công chức không vi phạm chế độ sinh một hoặc hai con được xác định và mô tả chi tiết như sau:
– Cặp vợ chồng sinh con thứ ba thuộc dân tộc ít người hoặc nguy cơ suy giảm số dân: Nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân, theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Quy định về trường hợp cặp vợ chồng sinh con thứ ba thuộc dân tộc ít người hoặc nguy cơ suy giảm số dân là một phần quan trọng của chính sách quản lý dân số của Nhà nước, có mục tiêu là đảm bảo sự cân đối và phát triển bền vững giữa các cộng đồng dân tộc. Theo Điều 2 Nghị định 20/2010/NĐ-CP, được sửa đổi bởi Điều 1 Nghị định 18/2011/NĐ-CP, quy định rằng nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân, theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thì việc sinh con thứ ba không bị xem là vi phạm chế độ sinh một hoặc hai con. Điều này là một góc quan trọng của chính sách dân số, chú trọng đến việc bảo vệ và phát triển các cộng đồng dân tộc ít người, đặc biệt là những cộng đồng có số dân đang giảm sút đáng kể. Việc không áp dụng chế độ sinh một hoặc hai con trong trường hợp này giúp người dân dân tộc ít người có quyền tự do hơn trong việc quyết định về kích thước gia đình mình mà không bị ràng buộc bởi các chính sách dân số chung. Chính sách này còn thể hiện tầm quan trọng của việc bảo vệ và duy trì sự đa dạng văn hóa, dân tộc trong cộng đồng, nhằm giữ vững bản sắc văn hóa và đồng thời đảm bảo sự phát triển toàn diện cho cả cộng đồng dân tộc ít người. Qua đó, Nhà nước đang hướng tới việc tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển và tồn tại của các cộng đồng dân tộc ít người, đồng thời giúp cải thiện chất lượng cuộc sống và nâng cao đời sống của những người thuộc cộng đồng này.
– Cặp vợ chồng sinh con lần thứ nhất nhưng có ba con trở lên: Đối với trường hợp này, quy định áp dụng khi cặp vợ chồng sinh con lần đầu tiên mà đã có ba con trở lên.
– Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên: Điều này áp dụng khi cặp vợ chồng đã có một con đẻ và quyết định sinh thêm hai con trong lần sinh tiếp theo.
– Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nhưng chỉ có một con đẻ còn sống: Nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã được cho làm con nuôi.
– Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền: Điều này chỉ áp dụng khi Hội đồng Giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận rằng hai con đã sinh ra bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền.
– Cặp vợ chồng đã có con riêng (con đẻ):
+ Đối với người đã có con riêng, có những quy định như sau: Sinh một hoặc hai con, nếu một trong hai người đã có con riêng (con đẻ). Sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng (con đẻ).
+ Lưu ý rằng quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống.
– Phụ nữ chưa kết hôn sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh: Đối với phụ nữ chưa kết hôn, quy định cho phép sinh một hoặc hai con trong cùng một lần sinh mà không vi phạm chế độ sinh một hoặc hai con.
Những quy định trên giúp định rõ các trường hợp ngoại lệ, tạo điều kiện cho công chức và nhân dân hiểu rõ hơn về chính sách về sinh đẻ của Nhà nước, đồng thời đảm bảo tính công bằng và phù hợp với tình hình cụ thể của từng gia đình và cộng đồng.
3. Mức độ hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật của cán bộ, công chức
Theo Nghị định 112/2020/NĐ-CP, mức độ hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật của cán bộ, công chức, viên chức được đánh giá dựa trên hậu quả của vi phạm như sau:
– Vi phạm gây hậu quả ít nghiêm trọng: Tính chất và mức độ tác hại không lớn. Tác động chỉ trong phạm vi nội bộ. Ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác.
– Vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng: Tính chất, mức độ, và tác hại lớn. Tác động ngoài phạm vi nội bộ. Gây dư luận xấu trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân. Giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác.
– Vi phạm gây hậu quả rất nghiêm trọng: Tính chất, mức độ, và tác hại rất lớn. Phạm vi tác động đến toàn xã hội. Gây dư luận bức xúc trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân. Mất uy tín của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác.
– Vi phạm gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng: Tính chất, mức độ, và tác hại đặc biệt lớn. Phạm vi tác động sâu rộng đến toàn xã hội. Gây dư luận đặc biệt bức xúc trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân. Mất uy tín của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác.